Phật Đản, Phật Đản Sinh hay Phật Giáng Sinh là danh từ để nói về ngày sinh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Có rất nhiều truyền thuyết về ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh. Nhưng hiện tại có 2 truyền thuyết tồn tại phổ biến là vào ngày 8/4 và ngày 15/4 Âm Lịch. Tại phiên họp thứ 54 ngày 15/12/1999, Đại hội Đồng Liên hiệp Quốc đã quyết định lấy ngày Đức Phật giáng sinh làm ngày “lễ hội Văn hóa tôn giáo thế giới” gọi là “Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc”. Đại lễ kỷ niệm 3 ngày trọng đại của Phật là: Đức Phật giáng sinh, Đức Phật thành đạo, Đức Phật nhập niết bàn.
Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch. Đức Phật tương truyền sinh nhằm ngày rằm, tháng Vesak, vào buổi sáng, trong thành Kapilavatthu, gần biên giới giữa đông bắc Ấn Độ và Nespan.
Truyện là hoàng đế Tịnh Phạn (Cuddhodana) họ Cồ Đàm (Gotama) và hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi) đã hạ sinh ra người con trai là hoàng tử Siddhartha Gautama. Sau khi hạ sinh hoàng tử được 7 ngày thì hoàng hậu băng hà. Thái tử sanh ra là một đại hạnh, đại phúc, cho tất cả chúng sanh.
Từ nhỏ, ngài đã sống một cuộc đời vô cùng sung sướng trong cung điện nguy nga, nào biết gì đến cảnh thực ngoài đời thực bên ngoài. Nhưng ngày qua tháng lại dần dần trong tâm Ngài tự phát giác sự thật. Ngài giác ngộ được rằng vạn vật là vô thường, có rồi không, thành rồi bại, có sinh có tử, có già có bệnh, rằng bao nhiêu vinh hoa, phú qúy, khoái lạc vật chất đầy rẫy trước mắt chẳng qua là một bã hư vô. Để rồi, Ngài mới quyết định xuất gia, bỏ hẳn thế sự, để đi tìm đâu là sự thật, đâu là tịnh lạc. Năm ấy 29 tuổi, Ngài từ bỏ cung điện nguy nga với những sa hoa vật chất, không phải vì thắc mắc của bản thân, mà chính vì cảnh đời đau khổ trầm luân của kẻ khác.
Suốt sáu năm trời, Ngài hãm thân vào cuộc đời khổ hạnh, hy sinh, chịu đựng muôn ngàn đau khổ với một tấm lòng sắt đá, kiên trì, với một niềm tin vô biên và luôn luôn xả thân để phụng sự. Rồi một hôm tịnh tọa trên mớ cỏ khô dưới cội bồ đề, tại Buddhagaya, Ngài tự nguyện : “Dù ràng thịt ta phải nát, xương phải tan, hơi phải mòn, máu phải cạn, ta quyết ngồi nơi này đến khi được hoàn toàn đắc quả vô thượng”. Vào ngày rằm, tháng Vesak, Ngài đắc quả Chánh Đẳng, Chánh Giác. Quả này là kết tinh cuối cùng của một lòng tự tin, tự lực, tự giác, chứ không phải nhờ ở một quyền lực siêu nhiên nào giúp đỡ. Lúc bấy giờ Ngài 35 tuổi. Từ đây người ta gọi Ngài là Đức Phật Cổ Đàm (Gotama), một vị Phật trong trường chi vô lượng Phật quá khứ và vị lai.
Khi đã được hoàn toàn sáng suốt và đắt quả Chánh Đẳng, Chánh Giác rồi, Ngài gia tâm đi hoằng hoá pháp màu để rọi sáng dẫn dắt kẻ khác. Được hoàn toàn giải thoát, Ngài gia tâm giải thoát chúng sanh bằng một lối đường Trung Đạo. Đầu tiên Ngài lập ra Giáo Hội Tăng Già chỉ gồm có năm vị Thanh Tịnh Pháp Sư. Đây là hạt giống đầu tiên hết sức nhỏ bé mà Ngài đã gieo, để rồi về sau này nở muôn ngàn đầy khắp bốn phương.
Khi rải các đệ tử đi hoằng hoá Giáo Pháp trong thiên hạ, Ngài gửi lời khuyên nhủ chư tăng như sau: “Hỡi chư Tỳ-Kheo, các con hãy mạnh dạn ra đi, đi vì ích lợi cho chúng sanh, đi vì hạnh phúc an vui cho nhân quần, xã hội, đi vì thương xót nhân loại. Các con hãy đi khắp chốn, ban bố giảng dạy Pháp này là diệu Pháp hoàn toàn. Các con hãy nêu cao đời sống Thánh Đức khiết thanh, luôn luôn hoàn toàn và trong sạch.”
Riêng phần Ngài, là hoá thân của Đức Độ cao siêu, trí tuệ luôn luôn sáng suốt, đầy lòng nhân đạo, từ bi, bác ái, hy sinh không bờ bến, đêm nghỉ chỉ một giờ. Trong năm mười hai tháng, hết tám tháng Ngài giãi dầu phong sương khắp chốn, không quản gì thân. Ngài tế độ chúng sanh như vậy suốt bốn mươi lăm năm trường.
Một hôm, khi cảm thấy sức đã kiệt, ngày lâm chung sắp đến, Ngài gọi tất cả đệ-tử về và nói : “Kiếp sống thật là ngắn ngủi ; Thầy nay tuổi đã già. Thầy sắp xa lìa các-con! Từ lâu vẫn nương tựa nơi Thầy. Các con hãy cố gắng chuyên cần tinh tấn, hãy kỹ càng thận trọng và luôn luôn giữ một lòng đạo đức cao cả, với những tư tưởng trong sạch siêu mẫn, các con hãy giữ gìn bản tâm cho chu đáo. Nhờ tôn chỉ và kỷ luật này, với một đời sống tích cực hoạt động đạo đức, các con sẽ được thoát khỏi vòng sinh tử, tử sanh và chấm dứt được phiền não, đau khổ. Vạn vật cấu tạo là nhứt gián, là vô thường. Các con hãy cố gắng lên!.
Năm ấy Đức Phật tám mươi tuổi thọ. Ngài trở về Kusinara, là một làng nhỏ bé xa xôi, nơi đây êm ái và an tịnh. Ngài tịch diệt, thân nằm giữa hai cây long thọ (Sala), hôm ấy đúng ngày rằm vào tháng Vesak.
Ngày nay khoa học và văn minh càng tiến bộ thì Đạo Phật càng được phát triển, các kinh sách của Đức Phật đã để lại cho nhân loại là một kho tàng quý báu. Tất cả đều dựa trên cái Tâm và Trí của thực thể con người, không ảo tưởng, không thần thoại, cũng không có cái gì là siêu hình, mê tín.
Học giả người Anh H.G. Wells đã viết : “Đức Phật là một nhân vật vô cùng giản dị, có Tâm Đạo nhiệt thành, tự lực một mình phấn đấu cho ánh sáng tươi đẹp, một con người sống, chứ không phải là một nhân vật của thần thoại, huyền bí, bên sau cái bề ngoài hơi ly kỳ thần thoại mà người đời hay gán cho ngài, tôi chỉ thấy rõ một con người như bao nhiêu vị Giáo Chủ khác. Ngài cũng truyền lại một tuyên ngôn, một hệ thống giáo lý rộng rãi khả dĩ thích hợp cho khắp loài người. Bao nhiêu ý niệm văn minh của ta ngày nay cũng hòa hợp được với giáo lý ấy. Ngài dạy rằng tất cả cái bất hạnh và phiền não của ta là do lòng ích kỷ mà ra, Ngài đã nhất định không sống riêng cho Ngài mà phải sống cho kẻ khác, từ đó Ngài sống một cuộc đời siêu nhân trên tất cả mọi người. Xuyên qua trăm, ngàn ngôn ngữ khác nhau”
Hàng năm cứ gần đến ngày rằm tháng tư âm lịch là toàn thể các tín đồ Phật giáo thuộc các giáo hội trên khắp thế giới náo nức tổ chức kỷ niệm ngày đản sanh nhằm mục đích nhắc nhở người con Phật ôn lại những răn dạy tinh hoa của Đức Thế Tôn, làm kim chỉ nam cho đời sống hiện tại cho mỗi người trên trần gian.