Tam bảo ấn dùng trong các trường hợp như: Lễ kỳ tiêu tai, Kỳ phước, chúc mừng, độ vong, pháp hội, khánh tiết,… và được dùng để đóng trong công văn sớ điệp. Do vì muốn nương nhờ công đức tam bảo chứng minh hộ trì, mà âm siêu dương thới, những Phật sự được hanh thông, thành tựu như ý.
1, Nguồn gốc
Ấn Tam bảo hay còn gọi là dấu Tam bảo là đại ấn của Phật giáo, là vật đại diện cho các nhà chùa và được khắc nội dung 4 chữ: Phật Pháp Tăng Bảo.
2, Đặc trưng của Tam bảo ấn là:
- Kiểu chữ: Chữ Phạn, chữ Việt, chữ theo lối Lệ thư, Triện thư hoặc Hành thư,…
- Hình dáng: Hình vuông (phổ biến nhất), hình tròn, hình củ ấu.
- Chất liệu con dấu: Dùng sừng, đá quý, ngọc bội, dấu gỗ, dấu đồng,…
- Kích thước: Trung bình sử dụng con dấu vuông cạnh 7cm.
Trong Phật giáo, Ấn Tam bảo là con dấu có giá trị, chỉ được khắc và sử dụng khi được người đứng đầu nhà chùa duyệt và đồng ý. Con dấu thường được dùng trong các công văn sơ điệp và trong các đại lễ lớn như: lễ kỳ tiêu tài, kỳ phước, pháp hộ, khánh tiết, độ vong,… với mong muốn nương nhờ công đức của Phật Pháp Tăng để phật sự hanh thông, thành tựu như ý.
3. Tham khảo về việc đóng dấu (ấn triện) trên sớ sách:
Dấu hình vuông, mỗi cạnh khoảng 7cm (7phân tây), dùng để đóng trên sớ điệp và trên bì các loại công văn. Dấu chỉ được đóng khi nào đã được vị chứng minh hay chủ sám duyệt qua và đồng ý. Tuyệt đối không được đóng dấu trước (khống chỉ). Vị trí dấu đóng phải cách trên đầu công văn một khoảng cách bằng cạnh con dấ Dấu Tam bảo khắc dương 4 chữ“PHẬT PHÁP TĂNG BẢO” theo lối chữ triện.
4. Một số mẫu tam bảo